Đa u tủy xương là một căn bệnh ung thư có tỷ lệ sống thấp. Các phương pháp điều trị đa u tủy xương hiện nay chỉ là giải pháp kéo dài sự sống cho người bệnh, số bệnh nhân sống trên 10 năm chỉ chiếm khoảng 5-10%.
Điều trị đa u tủy xương ở bệnh nhân điều trị lần đầu
+ Phương pháp hóa trị:
– Phác đồ MP:
Phác đồ chuẩn trong điều trị đa u tủy xương là phác đồ MP (gồm Melphalan + Prednisolon). Phác đồ MP đem lại hiệu quả điều trị cao hơn so với các phác đồ phối hợp các chất alkyl hoá ngay cả đối với các bệnh nhân có tiên lượng xấu. Khoảng 40% tỷ lệ bệnh nhân đáp ứng với phác đồ MP, thời gian sống không bệnh kéo dài thêm 18 tháng và thời gian sống toàn bộ kéo dài thêm 3 năm.
Do ảnh hưởng đến khả năng phát triển của tuỷ xương và có thể dẫn đến hội chứng loạn sản hoặc leucemie cấp thể tuỷ nên những bệnh nhân được chỉ định điều trị đa u tủy xương bằng hoá chất liều cao cần tránh sử dụng Melphalan và các chất alkyl hoá trước.
Điều trị đa u tủy xương bằng hóa trị liệu
– Phác đồ VAD (Vincristin, Adriamycin, Dexamethasone):
Phác đồ này thường được sử dụng trước khi điều trị hoá chất liều cao như một phác đồ có vai trò “làm sạch tuỷ”. Khoảng 55% bệnh nhân chưa được điều trị đáp ứng đối với phác đồ VAD và so với phác đồ MP đáp ứng điều trị đến sớm hơn. Do đó, đối với các bệnh nhân có biến chứng tăng calci máu, suy thận hoặc đau xương, phác đồ VAD mang lại nhiều lợi ích.
– Phác đồ Dexamethasone:
Do giúp người bệnh tránh được biến chứng suy tuỷ nặng nên phác đồ Dexamethasone đơn thuần được sử dụng kết hợp cho các bệnh nhân có chỉ định điều trị xạ trị cột sống giảm đau do chèn ép tuỷ.
– Phác đồ Thalidomide:
Sử dụng Thalidomide đơn thuần hoặc phối hợp với Dexamethasone cho tỷ lệ đáp ứng khoảng 64 %, cao hơn so với bình thường. Tuy nhiên, phác đồ phối hợp này gây ra phản ứng phụ là làm tăng nguy cơ bị viêm tắc tĩnh mạch và cần được điều trị dự phòng.
– Hoá chất liều cao:
Sau phác đồ hoá chất diệt tuỷ, việc điều trị hoá chất liều cao làm tăng tỷ lệ đáp ứng, thời gian sống thêm không bệnh (28 tháng so với 18 tháng) và thời gian sống thêm toàn bộ (57 tháng so với 42 tháng). Đối với các bệnh nhân đa u tuỷ xương có triệu chứng sau phác đồ hoá chất “làm sạch tuỷ” thì hóa chất liều cao kết hợp truyền tế bào gốc máu ngoại vi hiện được coi là biện pháp điều trị mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Nếu kết hợp xạ trị toàn thân có thể làm tăng biến chứng điều trị trong khi tiên lượng bệnh không có tiến triển, trường hợp nghiêm trọng có thể gây tử vong.
+ Phương pháp xạ trị:
Đối với các các khối u tương bào đơn độc ở xương hoặc ở ngoài tuỷ, liều xạ 40-50 Gy được sử dụng với mục đích điều trị triệt căn. Với các trường hợp đau khu trú do u thâm nhiễm xương, gãy xương bệnh lý hoặc chèn ép tuỷ, liều xạ thấp hơn (20-30 Gy) được sử dụng với mục đích giảm đau. Đối với các bệnh nhân mới được chẩn đoán và một số trường hợp corticoide liều cao cũng có tác dụng giúp giảm đau.
Điều trị đa u tủy xương khi bệnh tái phát hoặc tiến triển
Theo thống kê, số bệnh nhân không đáp ứng điều trị hoá chất chiếm khoảng 50% và trong số bệnh nhân có đáp ứng sẽ tiến triển hoặc tái phát sau điều trị.
+ Phác đồ VAD:
Đối với bệnh nhân thất bại sau điều trị đa u tủy xương bằng phác đồ MP thì phác đồ VAD là phác đồ được lựa chọn với tỷ lệ đáp ứng là 40% và với các bệnh nhân tái phát và không đáp ứng sau điều trị ban đầu thì tỷ lệ đáp ứng là 25%. Dexamethasone đơn thuần cho kết quả tương tự như VAD với những bệnh nhân kháng với hoá chất ban đầu (tỷ lệ đáp ứng là 25% so với 25-30%) nhưng thấp hơn VAD với các trường hợp bệnh nhân tái phát (tỷ lệ đáp ứng là 25% so với 40%).
Điều trị đa u tủy xương bằng phương pháp ghép tủy
+ Hoá chất kết hợp:
Đối với 1/3 số trường hợp bệnh nhân tái phát sau phác đồ VAD, hóa chất liều cao với các chất alkyl hoá đơn thuần hoặc kết hợp sẽ mang lại hiệu quả. Các phác đồ hay được sử dụng là kết hợp với Cyclophosphamide liều cao (Cytoxan, Neosar) với Melphalan tĩnh mạch (70-100 mg/m2) và Etoposide.
+ Phác đồ Thalidomide:
Trong điều trị đa u tuỷ xương thất bại hoặc tái phát sau các phác đồ khác, phác đồ Thalidomide đã được chứng minh là có hiệu quả điều trị khả quan. Tỷ lệ sống 2 năm không bệnh của bệnh nhân khoảng 25% và kết quả điều trị khác nhau trong từng nghiên cứu. Liều Thalidomide khởi đầu trong thời gian trước là 200 mg và tăng dần đến liều tối đa là 800 mg. Ngày nay, nhằm tăng khả năng chịu đựng của bệnh nhân và mở rộng chỉ định điều trị, người ta sử dụng liều điều trị thấp hơn. Qua các nghiên cứu về dược động học thuốc, kết hợp Thalidomide và các thuốc khác như Glucocorticoide và hoá chất cho kết quả điều trị cao hơn.
+ Các thuốc mới:
Để chống các dòng tế bào trong u tuỷ có thể sử dụng IMiD (Revimid hay CC-5013). Liều uống hàng ngày được nghiên cứu trong một nghiên cứu pha I là 5, 10, 15, 20, 25 và 50 mg trên 25 bệnh nhân tái phát hoặc thất bại sau điều trị. Kết quả cho thấy, hiệu quả điều trị tốt nhất ở liều 25-50 mg, giúp làm giảm paraprotein. Tuy nhiên, độc tính thường gặp là suy tuỷ sau 4 tuần điều trị. Việc điều chỉnh liều, thời gian điều trị và sử dụng G-CSF giúp giải quyết vấn đề này và đang tiếp tục được nghiên cứu pha II.
Loại thuốc với vai trò trong giáng hoá các protein, góp phần quan trọng trong kiểm soát sự phát triển và sống sót tế bào u có thể được sử dụng đó là Protease (Bortezomid) – loại thuốc ức chế chọn lọc men protease. Liều thường được sử dụng là 1,3 mg/m2 ngày 1, 4, 8 và 11 với chu kỳ 21 ngày cho thấy thuốc có hiệu quả điều trị cao với các bệnh nhân tái phát hoặc thất bại sau điều trị ngay cả sau điều trị bằng ghép tuỷ và điều trị bằng Thalidomide. Loại thuốc này gây ra các tác dụng phụ như mệt mỏi, rối loạn tiêu hoá, bệnh lý thần kinh và suy tuỷ có hồi phục. Việc điều trị kết hợp Bortezomid, Thalidomide và các hoá chất khác như Doxorubicin dạng tương bào (Doxil) đang được tiến hành nghiên cứu.
+ Điều trị ghép tuỷ:
Đối với các bệnh nhân trẻ tuổi kèm theo các yếu tố tiên lượng xấu và một số trường hợp khác, điều trị các phác đồ hoá chất liều cao gây suy tuỷ kèm theo ghép tuỷ tự thân là biện pháp điều trị được lựa chọn và đem lại hiệu quả khả quan hơn các phác đồ điều trị khác. Nhiều người thắc mắc ghép tủy sống được bao lâu nhưng rất khó để đưa ra đáp án cho câu hỏi này. Tuy nhiên, biện pháp ghép tủy này có tỷ lệ tử vong liên quan đến điều trị tương đối cao nên thường được cân nhắc khi lựa chọn.
Các phương pháp điều trị đa u tủy tủy xương chỉ có thể kéo dài sự sống cho người bệnh, hiện nay chưa có phương pháp điều trị khỏi bệnh hoàn toàn.
https://cot-song-tre-em.blogspot.com/
https://trat-khop-vai.blogspot.com/